PHẦN I. BÁO CÁO TỔNG KẾT CÔNG TÁC NHIỆM KỲ 2006 – 2011
Nhiệm kỳ đầu tiên của Hiệp hội In Việt Nam giai đoạn 2006 – 2011 diễn ra trong bối cảnh ngành Công nghiệp in Việt Nam chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố tác động mang tính toàn cầu cũng như những hiệu ứng từ tình hình kinh tế xã hội trong nước và các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
NHỮNG TÁC ĐỘNG MANG TÍNH QUỐC TẾ
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TRONG NƯỚC
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP IN TRONG 5 NĂM QUA
Hai năm 2006 – 2007 là thời kỳ các doanh nghiệp in thành lập mới nhiều nhất, mỗi năm có tới hàng trăm cơ sở in và dịch vụ ngành in ra đời. Đây cũng là thời kỳ mà nền kinh tế Việt Nam phát triển ổn định đạt mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay (8,20% vào năm 2006 và 8,50% vào năm 2007). Phần lớn các doanh nghiệp mới thành lập là trong lĩnh vực in nhãn hàng, bao bì và dịch vụ ngành in trong đó có nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó cũng phù hợp với xu thế chung khi nền kinh tế hàng hóa đang tăng trưởng mạnh và xu thế hội nhập quốc tế đang phát triển. Các doanh nghiệp mới phần lớn cũng thuộc các thành phần kinh tế không phải Nhà nước. Song song với quá trình này là việc đẩy mạnh cổ phần hóa đã làm thay đổi đáng kể cấu trúc các doanh nghiệp trong ngành in Việt Nam.
Trong khối in bao bì ngày một vắng bóng các doanh nghiệp Nhà nước và ngược lại có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp của các tập đoàn kinh tế và đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư khá bài bản và hiện đại đang trở thành các đối thủ cạnh tranh đáng kể với các doanh nghiệp trong nước. Trong khi đó, khối in thương mại trước kia là các doanh nghiệp nhà nước, nay phần lớn đã được cổ phần hóa, chỉ còn một số doanh nghiệp in lớn do chức năng đặc thù hoặc vướng mắc trong việc cổ phần hóa nay chuyển sang hình thức Công ty TNHH Nhà nước một thành viên. Khá nhiều công ty in tư nhân cũng xin bổ sung chức năng in xuất bản phẩm và tham gia thị phần in thương mại. Các doanh nghiệp nước ngoài không thể tham gia thị phần này trừ một vài doanh nghiệp in gia công xuất khẩu.
Cùng với việc đầu tư mạnh mẽ vào máy móc, thiết bị và thành lập thêm nhiều doanh nghiệp mới thì trong 2 năm 2006 – 2007 khi kinh tế Việt Nam tăng trưởng trên 8% thì ngành in Việt Nam cũng đã đạt được sự gia tăng từ 10 đến 15% mỗi năm.
Tuy vậy, từ năm 2008 sự phát triển của ngành in đã chựng lại do ảnh hưởng của hàng loạt các yếu tố tác động. Đó là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu kéo dài suốt 3 năm qua, tình trạng lạm phát và lãi suất ngân hàng ở trong nước quá cao tạo lực đẩy chi phí sản xuất lên quá lớn, trong khi sức mua của xã hội đối với sản phẩm của ngành in bị giảm sút nghiêm trọng. Tuy các yếu tố tác động nói trên chỉ mang tính nhất thời nhưng hậu quả và di chứng của nó đối với ngành in nước ta là khá nghiêm trọng – lợi nhuận của ngành in giảm đi phân nửa, tính bình quân toàn ngành chỉ còn khoảng 3% trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chỉ sở hữu ở nhiều doanh nghiệp ở mức dưới hai chữ số, thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động của ngân hàng.
Một yếu tố khác mà tác động của nó đối với ngành in còn sâu rộng và lâu dài hơn, đó là sự xâm thực của phương tiện truyền thông mạng. Trong 3 năm gần đây với sự phát triển rộng rãi của Internet, của sách điện tử và các phương tiện truy cập ngày một hiện đại và tiện ích thì khối lượng sách báo in ở Việt Nam đã giảm đi đáng kể. Tuy số đầu sách và báo chí vẫn tăng hơn trước nhưng số ấn bản đã giảm sút tới 30 – 40%, quảng cáo in cũng giảm hơn trước kia. Đó cũng là xu thế chung của toàn thế giới và trong nhiều năm tới cơ cấu in thương mại sẽ tiếp tục giảm trong khi in bao bì, nhãn hàng sẽ gia tăng theo nền sản xuất hàng hóa và công nghiệp chế biến. Ở Việt Nam tỷ trọng giữa hai mảng in này trong khoảng 40/60 và 35/65, trong khi ở nhiều nước phát triển đang tiến sát mức 30/70. Cũng do sự biến động về cơ cấu sản phẩm nên máy móc thiết bị ở khối in thương mại đang dư thừa tới 30% công suất.
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu sản phẩm ngành in có tình trạng bất cập là việc chuyên môn hóa của các doanh nghiệp in Việt Nam không cao hơn trước mà ngược lại có tình trạng nhiều doanh nghiệp in bao bì lại xin bổ sung chức năng in xuất bản phẩm, còn các doanh nghiệp in xuất bản phẩm lại mở rộng thêm mảng in nhãn hàng và bao bì. Hiện tượng này mang tính tự phát và làm cho việc cạnh tranh giá cả ở cả hai mảng thị phần thêm phần quyết liệt, trong khi việc đầu tư chuyên sâu bị ảnh hưởng và sự phát triển của ngành in Việt Nam thiếu tính đột biến và đa dạng.
Đối với thị trường quốc tế, một số doanh nghiệp in Việt Nam đã mạnh dạn đầu tư, đột phá vào lĩnh vực in gia công xuất khẩu và đã có được những kết quả khả quan ban đầu, nhưng do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên lượng đơn hàng in gia công năm nay đã bị giảm sút, điều kiện về môi trường và tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế ngày một nghiêm ngặt hơn, đơn giá in gia công cũng ngày một cạnh tranh hơn. Tuy vậy những tín hiệu gần đây vẫn cho thấy các nước trong khu vực trước đây in gia công xuất khẩu khá lớn như Singapore, Hong Kong, Australia,… nay do chi phí tại chỗ quá cao nên muốn chuyển đơn hàng qua in tại Việt Nam hoặc nhiều khách hàng muốn chuyển thị trường in gia công từ Trung Quốc sang Việt Nam. Vấn đề là năng lực in gia công của Việt Nam còn hạn chế do trang thiết bị thiếu đồng bộ và chưa đủ hiện đại, nhất là khâu gia công sau in.
Với những khó khăn và tác động mạnh mẽ của các yếu tố khách quan và chủ quan nên nhịp độ tăng trưởng của ngành in Việt Nam trong 3 năm qua đã giảm đi rõ rệt so với thời kỳ trước, chỉ còn khoảng 5% mỗi năm. Khá nhiều doanh nghiệp nhỏ, mới thành lập đã phải đóng cửa hoặc tạm ngưng hoạt động. Số lượng doanh nghiệp hoạt động thực sự có hiệu quả và có tăng trưởng chỉ khoảng 20 – 30%, số còn lại hoạt động cầm chừng hoặc đang rất lúng túng trong việc ổn định sản xuất và phát triển.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Cục Xuất bản (tổng hợp từ 717 cơ sở in thuộc 63 tỉnh thành và khối Quân đội) thì sản lượng trang in và doanh thu toàn ngành như sau :
Số liệu trên còn có sự cách biệt khá lớn so với sản lượng và doanh số của toàn ngành với hàng ngàn cơ sở in đang hoạt động mà các Sở Thông tin và Truyền thông không thống kê được.
Việc đầu tư của ngành in trong 5 năm vừa qua so với trước đây đã có nhiều nét khác biệt. Nhiều cơ sở in lớn ở các trung tâm và địa phương đã xây dựng, cải tạo lại hoặc di dời đến địa điểm mới, rộng rãi và khang trang hơn, nhiều cơ sở khác cũng đang có kế hoạch chuyển đổi địa điểm sản xuất. Một điều đáng tiếc là mục tiêu xây dựng các khu công nghiệp in kiểu “print city” tại các trung tâm lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã không thực hiện được. Nay mục tiêu đó ngày một khó thực hiện hơn do nhiều công ty in lớn đều đã hoặc sắp thực hiện việc di dời theo phương án độc lập. Xu thế đầu tư cho máy móc thiết bị của các doanh nghiệp cũng chú trọng hơn cho các loại thiết bị và công nghệ mới, hiện đại ở tất cả các khâu trước in, in và sau in, trong đó có một số nhà in tư nhân được đầu tư khá mạnh.
Do cơ cấu sản phẩm của ngành in đang có sự điều chỉnh nên ngoài công nghệ in offset được đầu tư khá mạnh trước đây thì nay việc đầu tư cho công nghệ in flexo và ống đồng cũng đã được chú trọng hơn, đặc biệt có một số cơ sở đã mạnh dạn đầu tư vào công nghệ kỹ thuật số – một xu thế phát triển mới của ngành in thế giới và Việt Nam trong tương lai. Tuy một số cơ sở còn lúng túng trong việc phát triển thị trường, tạo thói quen mới cho khách hàng,… nhưng một số cơ sở in kỹ thuật số đã có được những kết quả khá tốt. Các nhà cung cấp thiết bị, công nghệ in kỹ thuật số tại Việt nam cũng đang tìm cách hỗ trợ tối đa để in kỹ thuật số phát triển mạnh tại Việt Nam trong thời gian tới.
Đào tạo nhân lực đang trở thành vấn đề lớn của ngành in Việt Nam. Với nhu cầu bổ sung hàng ngàn lao động mỗi năm thì các cơ sở đào tạo hiện có không dủ khả năng đáp ứng, chưa kể chất lượng đào tạo còn có những bất cập. Tình trạng thiếu nhân lực, đặc biệt là đội ngũ thợ giỏi và cán bộ quản lý giỏi đã dẫn đến hiện tượng lôi kéo nhân lực giữa các doanh nghiệp in của Việt Nam và giữa doanh nghiệp in Việt Nam và các doanh nghiệp in nước ngoài đầu tư tại Việt Nam. Khó khăn lớn nhất hiện nay trong công tác đào tạo là thiếu đội ngũ giáo viên giỏi và tâm huyết, cập nhật đủ những kiến thức mới để nâng cao chất lượng đào tạo, thứ hai là các cơ sở đào tạo đang thiếu nghiêm trọng đầu vào. Dù đã có nhiều cố gắng trong khâu tuyển sinh và quảng bá, giới thiệu về dịch vụ đào tạo nhưng những năm gần đây số lượng tuyển sinh luôn thiếu hụt so với công suất của các cơ sở đào tạo. Mâu thuẫn này cũng thể hiện sự thiếu quan tâm của các doanh nghiệp đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực cho chính mình. Ở các khu vực miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long đang có nhu cầu thành lập cơ sở đào tạo theo hướng liên kết là hoàn toàn chính đáng và phù hợp để đáp ứng nguồn nhân lực tại chỗ.
HOẠT ĐỘNG CỦA HIỆP HỘI IN VIỆT NAM TRONG 5 NĂM QUA
Ngay sau Đại hội thành lập và thực hiện Điều lệ được Bộ Nội vụ phê chuẩn, Hiệp hội In Việt Nam đã nhanh chóng xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy và ban hành các quy chế hoạt động của văn phòng, Ban Kiểm tra và các Ban chuyên môn. Một số Ban chuyên môn đã hoạt động tương đối tốt mang lại những lợi ích thiết thực cho hội viên và đóng góp vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hiệp hội In Việt nam. Tuy vậy sự hoạt động của từng ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và các Ban chuyên môn chưa đều tay, thậm chí có ủy viên Ban Chấp hành không hề tham dự kỳ họp nào. Nhân sự trong Ban Chấp hành trong nhiệm kỳ cũng biến động, 6/35 ủy viên Ban Chấp hành, 1/11 ủy viên Ban Thường vụ, 2/3 ủy viên Ban Kiểm tra nghỉ hưu hoặc chuyển công tác. Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của Hiệp hội, chưa đáp ứng kỳ vọng của các hội viên.
Việc phát triển hội viên: Với 220 hội viên hiện nay, tăng gần gấp rưỡi so với ngày thành lập, hầu hết lại là các doanh nghiệp lớn, đóng góp tới 2/3 sản lượng của toàn ngành, do đó sự phát triển của từng hội viên sẽ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển chung của ngành in. Tuy vậy, số hội viên hiện nay còn ít so với lực lượng hàng ngàn cơ sở in và dịch vụ trong toàn ngành in hiện nay. Một mặt do công tác tuyên truyền, phát triển hội viên còn chưa tích cực, mặt khác sức thuyết phục về việc bảo vệ quyền lợi của Hiệp hội In đối với hội viên chưa cao.
Ngoài những hoạt động chung của Hiệp hội In Việt Nam thì việc thành lập và hoạt động phối hợp của các Hội và Chi hội cơ sở cũng hết sức quan trọng.
Hội in Hà Nội và gần đây là Hội in TP. HCM là hai hội cơ sở tại hai trung tâm in lớn nhất của cả nước đã tập hợp được khá đông hội viên không chỉ ở hai thành phố mà còn ở các địa phương khác, tiến hành nhiều hoạt động như phối hợp hành động về thị trường, giá cả, hội thảo khoa học về công nghệ, quản trị doanh nghiệp, về công tác đào tạo và hợp tác giữa các hội viên. Chi hội in Đồng bằng sông Cửu Long vẫn phát huy mối quan hệ gắn bó truyền thống giữa các nhà in trong khu vực. Chi hội các nhà in Bắc miền Trung, Chi hội các nhà in miền núi và trung du phía Bắc tăng cường mối giao lưu, phối hợp hành động, mang lại những lợi ích thiết thực. Chi hội in gia công xuất khẩu TP. HCM, tuy chỉ có 3 hội viên là các doanh nghiệp trẻ thuộc khối tư nhân đã mạnh dạn đột phá vào thị trường in ấn quốc tế bằng sự đầu tư mạnh mẽ về cơ sở vật chất, kỹ thuật và kỹ năng quản lý chất lượng và quản trị doanh nghiệp.
Trong hai năm 2009 – 2010 doanh số của các đơn vị này đã tăng 25% về xuất khẩu và 40% đối với sản phẩm nội địa. Năm 2011 thị trường in gia công xuất khẩu có bị thu hẹp, ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp này nhưng cơ hội để phát triển tiếp trong tương lai vẫn còn những tiềm năng.
Sự phối hợp hành động giữa Hiệp hội In Việt nam và các Hội, Chi hội và các hội viên là rất cần thiết khi đặc thù về địa lý, thị trường vùng miền, phân khúc sản phẩm là những yếu tố quan trọng trong thị trường in Việt Nam nói chung.
Trong những năm gần đây vai trò của các Hiệp hội ngành nghề đã được Nhà nước và các cơ quan hoạch định chính sách của Chính phủ quan tâm và đề cao.
Những kiến nghị, giải pháp về chế độ, chính sách của Hiệp hội In Việt Nam luôn bám sát thực tế, được các cơ quan hữu quan xem xét và từng bước có các điều chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp ngành in và sự phát triển chung của ngành.
Trong bối cảnh phân khúc thị trường in thương mại đang bị suy giảm, công suất máy móc đang dư thừa, phân khúc in bao bì cũng có quá nhiều nhà đầu tư thì vấn đề thị trường và giá cả đang là vấn đề nóng bỏng, nổi cộm nhất hiện nay. Suốt ba năm qua tình trạng lạm phát cao và giá cả leo thang liên tục làm cho chi phí sản xuất bị đội lên. Trước sức ép giải quyết việc làm cho người lao động, để giữ chân khách hàng, phần lớn các doanh nghiệp chọn giải pháp giá rẻ, thậm chí chấp nhận không có lời hoặc có thể lỗ. Điều đó đang làm cho hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đang ngày một giảm đi, sự phát triển bền vững bị đe dọa và khách hàng đang lợi dụng tâm lý đó để ép giá nhà in. Ngoài việc chấp nhận giá in rẻ mạt, các nhà in còn bị khách hàng chiếm dụng vốn, trốn nợ, thậm chí cả lừa đảo hết nhà in này đến nhà in khác. Các hội viên và doanh nghiệp in chưa phải là hội viên đã phản ánh tình trạng trên và đề nghị Hiệp hội In Việt Nam can thiệp và có giải pháp kiên quyết, triệt để để hạn chế tình trạng này. Có những trường hợp Hiệp hội In đã can thiệp thành công thông qua việc thuyết phục, nhắc nhở. Về giải pháp chế tài thì Hiệp hội In chưa tìm ra cơ chế phù hợp nhưng đã đề xuất đưa các thông tin về việc phá giá, lôi kéo khách hàng bằng các hành vi thiếu đạo đức nghề nghiệp và các khách hàng đang trốn nợ do các doanh nghiệp cung cấp trên trang Web hoặc tạp chí của Hiệp hội.
Ở một số phân khúc sản phẩm, vai trò của Hiệp hội, Hội, Chi hội in trong việc hiệp thương giá cả và phân chia thị phần đã mang lại những lợi ích thiết thực. Việc đấu thầu in sách giáo khoa trong nhiều năm qua tuy vẫn còn những hiện tượng đáng tiếc như bỏ giá quá thấp so với giá trần, giành giật số gói thầu vượt quá năng lực hoặc phá vỡ những nguyên tắc trong các cuộc hiệp thương do Hiệp hội tổ chức, nhưng nói chung cũng mang lại những hiệu quả tốt hơn cho các đơn vị tham gia thị trường in sách giáo dục. Việc hiệp thương để thống nhất giá cả in vé số, in một số loại nhãn hàng, in lịch bloc, in hóa đơn ở phía Nam đã có những thành công nhất định. Một số nhà in ở các khu vực phía Bắc và miền Trung cũng có sự liên kết để bảo vệ lợi ích của nhau. Nhiều nhà in đề nghị Hiệp hội xây dựng khung giá sàn cho các nhóm sản phẩm để các nhà in làm căn cứ thương lượng giá cả với khách hàng; tránh bị khách hàng “làm giá”. Hiệp hội đã ghi nhận nguyện vọng này và có thể làm thử ở một số loại sản phẩm tiêu biểu trước. Tuy vậy, quan trọng nhất vẫn là ý thức của từng doanh nghiệp, từng hội viên trong việc tuân thủ những cam kết chung, những hành động vì lợi ích chung của cộng đồng.
Để nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp và đầu tư phát triển, các doanh nghiệp rất cần thông tin về những tiến bộ kỹ thuật của ngành In thế giới, những kiến thức mới và những kinh nghiệm về khoa học quản lý doanh nghiệp.
Với lực lượng lao động trên 60.000, nhu cầu đào tạo nhân lực của ngành là rất lớn, các cơ sở đào tạo hiện có không đủ năng lực để đáp ứng.
Ngoài hình thức đào tạo chính quy do các trường Đại học, Cao đẳng và Trung cấp nghề đảm nhận thì Hiệp hội In Việt Nam, các Hội in và Chi hội đã phối hợp với Cục Xuất bản, các cơ sở đào tạo trong nước tổ chức chiêu sinh và đào tạo nhiều khóa đào tạo tại chỗ, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý và nâng cao tay nghề cho các doanh nghiệp in.
Một số cơ sở mới về đào tạo của ngành in được hình thành trong những năm qua là :
Tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế cũng như trong nước luôn là mối quan tâm của Hiệp hội từ ngày đầu thành lập. Hiệp hội In Việt Nam đã thiết lập được mối quan hệ với các Hiệp hội thuộc ngành in của các nước trong khu vực như : Trung Quốc, Nhật Bản, Hong Kong, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Malaysia… và nhiều tổ chức quốc tế khác như : Phòng Thương mại Đức tại Việt Nam, Công ty Tổ chức Hội chợ Triển lãm Duselldorf (CHLB Đức), Hiệp hội Giấy Thái Lan, Khu Công nghiệp Print City của Bangkok, Cục Xúc tiến Thương mại Hong Kong, Công ty Hội chợ – Triển lãm Chan Cheo của Đài Loan.
Hàng chục đoàn doanh nghiệp in của các quốc gia kể trên và Việt Nam đã thăm viếng lẫn nhau để trao đổi thông tin và tìm hiểu thị trường.
Các Hiệp hội ngành nghề trong nước như : Hội Xuất bản, Hiệp hội Bao bì, Hiệp hội Giấy, Hiệp hội Quảng cáo, Hiệp hội Sơn và Mực in có mối quan hệ gần gũi và phối hợp hành động với Hiệp hội In Việt Nam. Việc xây dựng và củng cố mối quan hệ mật thiết với đối tác chiến lược của ngành in là Nhà Xuất bản Giáo dục đã được Hiệp hội In luôn quan tâm và hai bên đã có những sự phối hợp công việc để hỗ trợ lẫn nhau trong việc in sách giáo dục và các mặt công tác xã hội khác.
Hiệp hội cũng luôn duy trì các hoạt động xã hội như: Chúc mừng các hội viên nhân dịp các sự kiện lớn, ủng hộ các cơ sở bị thiên tai, bão lụt, một số gia đình CB.CNV có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, các hoạt động giao lưu về văn nghệ, thể thao nhân dịp ngày truyền thống của ngành được tổ chức hàng năm với quy mô và hình thức phù hợp với điều kiện của từng khu vực.
5 năm qua ngành in Việt Nam đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển của đất nước – đã hoàn thành tốt nhiệm vụ phục vụ chính trị, phát triển kinh tế, đóng góp một phần vào sự nghiệp giáo dục của Đảng và Nhà nước. Nhiều đơn vị và cá nhân đã được khen thưởng các danh hiệu Anh hùng lao động, Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, Huân Huy chương và các danh hiệu, phần thưởng cao quý khác. Các nhà in từ Trung ương đến địa phương đã làm tốt việc in ấn tài liệu phục vụ Đại hội Đảng, phục vụ bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp và bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XIII. Nhiều đơn vị cá nhân cũng được Bộ Thông tin và Truyền thông, Nhà Xuất bản Giáo dục khen thưởng hàng năm. Trong nhiệm kỳ qua Hiệp hội In Việt Nam đã tặng Bằng khen cho 61 tập thể và cá nhân là hội viên về những đóng góp nổi bật cho hoạt động của Hiệp hội In Việt Nam và sự phát triển chung của ngành, tặng 41 Kỷ niệm chương cho các đơn vị và cá nhân đã đóng góp và tài trợ cho hoạt động của Hiệp hội In Việt Nam. Tuy vậy, việc khen thưởng của Hiệp hội In Việt Nam còn hạn chế và chưa kịp thời, Hiệp hội cũng chưa có các hình thức kỷ luật thích hợp đối với những hội viên không tuân thủ các cam kết đã thống nhất trong hoạt động đấu thầu, trong việc đóng hội phí hàng năm, trong việc tranh chấp, phá giá thị trường, lôi kéo khách hàng, nhân công có tay nghề của các đơn vị bạn.
Đánh giá hoạt động trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên của Hiệp hội In Việt Nam, những mặt làm được là đã tập hợp được một lực lượng đáng kể các doanh nghiệp và tổ chức trong Ngành In Việt Nam trong một tổ chức xã hội – nghề nghiệp và từng bước thực hiện các chức năng quy định trong Điều lệ của Hiệp hội như tham gia với Nhà nước và các cơ quan quản lý Ngành về các chính sách chế độ và các văn bản pháp quy liên quan đến Ngành In, tổ chức hiệp thương về thị trường và giá cả ở một số nhóm sản phẩm, cung cấp thông tin về khoa học – công nghệ, chia sẻ kinh nghiệm về tổ chức, quản lý, hỗ trợ trong công tác đào tạo nhân lực, mở rộng các mối quan hệ trong nước và quốc tế v.v… Tuy vậy hiệu quả hoạt động của Hiệp hội In Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế như giải quyết các vấn đề bức xúc của các doanh nghiệp còn chưa rốt ráo, triệt để, chưa thực sự đi sâu, đi sát các cơ sở để giải quyết những khó khăn cụ thể của từng doanh nghiệp, từng vùng miền, sự liên kết giữa các hội viên còn lỏng lẻo, quyền lợi thiết thực của các hội viên chưa thực sự được đảm bảo.
Những hạn chế đó cần được khắc phục bằng các giải pháp cụ thể trong hoạt động của Hiệp hội In Việt Nam trong nhiệm kỳ tới.
PHẦN II. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NHIỆM KỲ II (2011 – 2016)
Đúc kết từ những kinh nghiệm trong hoạt động của nhiệm kỳ đầu, Hiệp hội In đặt ra những nhiệm vụ trọng tâm cần làm tốt hơn trong nhiệm kỳ II như sau :
Để thực hiện tốt chương trình công tác trọng tâm nói trên đòi hỏi Ban lãnh đạo Hiệp hội, Ban Thường vụ, các ủy viên Ban Chấp hành, các Ban Chuyên môn của Hiệp hội và toàn thể hội viên cùng tích cực tham gia, đóng góp bằng ý thức tự giác và hành động cụ thể nhằm mang lại lợi ích thiết thực cho các hội viên và sự phát triển chung của toàn ngành In Việt Nam.